Việt Nam đã gây chú ý trên trường quốc tế khi chia sẻ những bài học quý giá về việc triển khai mạng 5G hiệu quả và bền vững. Với mục tiêu phát triển hạ tầng số hiện đại, phủ sóng rộng khắp và tốc độ cao, Việt Nam đã tiến hành đấu giá tần số thành công vào tháng 3 năm 2024, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong chiến lược số hóa quốc gia. Qua đó, các nhà khai thác lớn như Viettel, VNPT và MobiFone đã giành được quyền sử dụng các băng tần quan trọng, tạo tiền đề cho sự phát triển nhanh chóng của công nghệ mạng thế hệ thứ năm này trên toàn quốc.
Ông Lê Văn Tuấn – Cục trưởng Cục Tần số Vô tuyến điện Việt Nam – đã giải thích về chính sách định giá tần số được điều chỉnh hợp lý để thúc đẩy đầu tư và nâng cao chất lượng dịch vụ. Theo ông, chi phí phổ tần ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng đầu tư hạ tầng mạng của nhà khai thác. Những nghiên cứu quốc tế chỉ ra rằng khi chi phí tần số vượt quá 10% doanh thu hàng năm, đầu tư sẽ giảm sút và chất lượng dịch vụ đi xuống. Ngược lại, duy trì chi phí dưới 5% doanh thu giúp các nhà mạng liên tục tăng cường đầu tư cũng như cải thiện trải nghiệm người dùng.
Dựa trên nguyên tắc này, Việt Nam đã giảm giá khởi điểm trong các phiên đấu giá phổ tần để bảo đảm chi phí hợp lý cho nhà mạng. Kết quả là chi phí tần số hiện ở mức khoảng 6% hoặc thấp hơn so với doanh thu hằng năm của các nhà khai thác lớn tại Việt Nam. Từ kinh nghiệm này, nước ta đã khởi xướng ý tưởng xây dựng một báo cáo chung tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương nhằm chia sẻ mô hình định giá phổ tần hiệu quả với các quốc gia khác đang phát triển hạ tầng số.
Ông Tuấn nhấn mạnh vai trò của việc lựa chọn đa dạng băng tần trong việc thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh giữa các nhà cung cấp dịch vụ di động. Thay vì chỉ đấu giá một loại băng tần như nhiều quốc gia khác, Việt Nam tổ chức đấu giá cả hai băng tần 2,6 GHz và 3,8 GHz. Điều này không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển đồng thời của công nghệ 4G và 5G mà còn nâng cao tính cạnh tranh vì các nhà khai thác đều mong muốn sở hữu những khối phổ có dung lượng lớn và giá trị cao. Bên cạnh đó, yêu cầu về nghĩa vụ triển khai mạng lưới trong vòng hai năm đầu cũng được đặt ra nhằm đảm bảo mục tiêu phủ sóng và chất lượng mạng.
Việc hạn chế chuyển nhượng phổ tần trong vòng năm năm kể từ sau đấu giá ngăn chặn tình trạng đầu cơ phổ tần, giúp giữ ổn định thị trường và tập trung nguồn lực vào phát triển hạ tầng thay vì xem phổ tần như một món tài sản giao dịch thương mại. Chính sách định giá được đánh giá là bền vững và tương thích với chiến lược phát triển dài hạn của ngành viễn thông Việt Nam.
Ông Lê Văn Tuấn chia sẻ về chiến lược triển khai 5G
Sau một năm triển khai mạng 5G thương mại, Việt Nam đã ghi nhận bước tiến lớn trong bảng xếp hạng tốc độ Internet di động toàn cầu của Ookla. Tốc độ tải xuống trung bình đạt gần gấp ba lần so với năm trước đó, đưa vị trí của quốc gia lên thứ 16 toàn cầu. Các nhà cung cấp dịch vụ như Viettel và VNPT cũng vươn lên nằm trong top những đơn vị có tốc độ truy cập internet di động nhanh nhất thế giới. Đây là minh chứng rõ nét cho hiệu quả của việc hoạch định chính sách phổ tần và chiến lược phát triển mạng lưới phù hợp.
Một trong những yếu tố then chốt tạo nên thành công của Việt Nam chính là quy hoạch phổ tần đa dạng và cung cấp cho nhà mạng quyền truy cập đủ rộng vào cả băng tần trung bình và băng tần thấp. Ông Lê Văn Tuấn cho biết tổng cộng có tới 660 MHz băng tần trung bình sẵn sàng sử dụng, bao gồm các dải tại 2,3 GHz, 2,6 GHz và 3,8 GHz. Việc chuyển đổi từ cấu hình FDD sang TDD nhằm tăng kích thước khối băng tần lên tới 90-100 MHz cũng góp phần quan trọng giúp mạng 5G phát huy hết tiềm năng về tốc độ và vùng phủ sóng.
Quy hoạch lại băng tần C cũng là một bài toán phức tạp khi phải di dời nhiều trạm vệ tinh VSAT và TVRO sang các dải khác hoặc thay thế bằng truyền dẫn qua cáp quang để tránh nhiễu tín hiệu. Đồng thời việc phát triển các bộ lọc tùy chỉnh có tiêu chuẩn bảo vệ cao hơn nhưng chi phí thấp hơn đã hỗ trợ giảm thiểu rủi ro can nhiễu đáng kể so với giải pháp sẵn có trên thị trường.
Bên cạnh đó, băng tần thấp như dải 700 MHz giữ vai trò thiết yếu trong việc mở rộng vùng phủ sóng sâu vào khu vực đô thị đông dân cư cũng như vùng nông thôn xa xôi nhờ đặc tính xuyên thủng tốt. Việc hoàn tất chương trình số hóa truyền hình trước đó đã giải phóng được băng tần này cho mục đích sử dụng di động. Nhờ đó mà hiệu suất mạng không dây tại Việt Nam được cải thiện rõ rệt trên diện rộng.
Mặc dù ra mắt muộn hơn so với nhiều quốc gia khác trong khu vực và thế giới, nhưng Việt Nam đã bắt kịp rất nhanh với tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ. Sự phối hợp linh hoạt trong quản lý phổ tần cùng chính sách đấu giá chiến lược đã mang lại kinh nghiệm quý báu cho các nước đang tìm kiếm mô hình phát triển hạ tầng số hiệu quả. Qua đó khẳng định vị thế tiên phong của Việt Nam trên bản đồ công nghệ viễn thông khu vực Đông Nam Á.