Báo chí hiện nay đóng vai trò quan trọng trong việc đưa tri thức số tiếp cận gần hơn với đông đảo người dân, góp phần tạo ra sự đồng thuận và khuyến khích sự tham gia tích cực vào chuyển đổi số quốc gia. Thông qua các bài viết, phóng sự và thông tin đơn giản, dễ hiểu, báo chí không chỉ phổ cập kiến thức mà còn thổi bùng tinh thần đổi mới sáng tạo trong xã hội. Sự kết nối này giúp hình thành một cộng đồng cùng chia sẻ trách nhiệm trên hành trình phát triển kinh tế số và xã hội số, đảm bảo không để ai bị bỏ lại phía sau trong kỷ nguyên số hóa đang phát triển nhanh chóng.
Ngày Chuyển đổi số Quốc gia 10/10 được Thủ tướng Chính phủ chọn làm dịp để nâng cao nhận thức chung về vai trò của chuyển đổi số đối với đất nước. Đây là dịp định kỳ giúp hệ thống chính trị, doanh nghiệp và người dân nhìn nhận lại tiến độ và hiệu quả thực hiện các mục tiêu đã đề ra. Cơ sở pháp lý cho công cuộc chuyển đổi số được thiết lập từ năm 2020 với chương trình chiến lược hướng đến năm 2025 và tầm nhìn đến 2030, tập trung trên ba trụ cột gồm Chính phủ số, Kinh tế số và Xã hội số. Việc thực hiện đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực này đã đem lại nhiều kết quả nổi bật, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội bền vững và nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước.
Trong mảng Chính phủ số, Việt Nam đã tập trung xây dựng các dịch vụ công trực tuyến hoàn chỉnh, cho phép người dân thực hiện thủ tục từ đầu đến cuối chỉ qua mạng internet. Một số dịch vụ đạt tỷ lệ sử dụng trực tuyến lên đến 95%, minh chứng cho việc người dùng sẵn sàng chuyển sang hình thức giao dịch hiện đại khi quy trình được thiết kế thân thiện và tiện lợi. Mục tiêu đến năm 2030 là có 70% người trưởng thành sử dụng các dịch vụ công trực tuyến. Trên bảng xếp hạng chính phủ điện tử toàn cầu năm 2024, Việt Nam đứng thứ 72 trong tổng số 193 quốc gia, dẫn đầu khu vực đối với nhóm các nước đang phát triển. Tuy nhiên vẫn cần nâng cao chất lượng dịch vụ trực tuyến như chỉ số Online Service Index để thúc đẩy trải nghiệm tốt hơn.
TS. Vũ Hải Quang, Phó Tổng Giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam
Kinh tế số đang trở thành động lực tăng trưởng quan trọng với đóng góp khoảng 17% GDP quốc gia hiện tại và tốc độ phát triển gấp ba lần tốc độ chung của nền kinh tế. Tính đến năm 2023, hệ sinh thái doanh nghiệp công nghệ có khoảng 76.000 đơn vị hoạt động mạnh mẽ. Chính phủ ưu tiên mở rộng hạ tầng kỹ thuật số cũng như kích thích sáng tạo ứng dụng công nghệ tiên tiến như trí tuệ nhân tạo (AI) hay Internet vạn vật (IoT). Những bước tiến này nhằm nâng cao năng suất lao động và tạo ra giá trị gia tăng lớn hơn trong chuỗi cung ứng, giúp cho mô hình tăng trưởng thay đổi theo hướng bứt phá thay vì tuyến tính truyền thống.
Về xã hội số, Việt Nam đạt nhiều thành tựu vượt trội về hạ tầng viễn thông với tỷ lệ phủ sóng 4G gần như toàn dân ở mức 99,8%, cáp quang đến hộ gia đình đạt gần 80%, cao hơn đáng kể so với mức trung bình thế giới khoảng 60%. Người dùng smartphone chiếm hơn 84% dân số với chi phí data thuộc nhóm thấp nhất toàn cầu, điều này giúp mở rộng cơ hội tiếp cận Internet cho mọi tầng lớp xã hội. Bên cạnh đó, tỷ lệ sử dụng địa chỉ IPv6 của Việt Nam xếp hạng thứ hai khu vực ASEAN và đứng thứ chín thế giới, vượt cả những nền công nghệ hàng đầu như Mỹ hay Trung Quốc. Những con số này dự báo tiềm năng phát triển Internet vạn vật (IoT) cũng như nền kinh tế dữ liệu sắp tới là rất lớn.
Việt Nam đang bước vào kỷ nguyên mới đầy tiềm năng với nhiều cơ hội nhờ sự phát triển của trí tuệ nhân tạo và an ninh mạng. AI được xem là chìa khóa để gia tăng năng suất lao động cũng như tạo ra các sản phẩm dịch vụ thông minh mang tính đột phá trong mọi lĩnh vực. Đồng thời, an ninh mạng ngày càng trở nên thiết yếu khi các nguy cơ tấn công mạng gia tăng nhanh chóng; đây cũng là lĩnh vực có thể trở thành ngành kinh tế xuất khẩu mới nếu được đầu tư đúng mức. Công nghệ blockchain và Web3 cũng thu hút sự chú ý lớn khi Việt Nam nằm trong top thị trường tiền mã hóa sôi động nhất thế giới với khoảng 17 triệu đơn vị tài sản kỹ thuật số được nắm giữ cá nhân tính đến cuối năm 2024.
Báo chí là cầu nối đưa tri thức số đến gần người dân
Để tận dụng tối đa các cơ hội trên, Việt Nam cũng phát triển mạnh mẽ ngành công nghiệp công nghệ cao chiến lược như bán dẫn nhằm nâng cao vị thế trên chuỗi giá trị toàn cầu và đảm bảo tự chủ nguồn cung ứng công nghệ thiết yếu. Việc sở hữu năng lực sản xuất chip bán dẫn nội địa sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh vượt trội cho nền kinh tế số đang chiếm khoảng 17% GDP hiện nay. Song song đó là việc khai thác dữ liệu lớn cùng AI để biến dữ liệu thành tài sản quốc gia nhằm thúc đẩy phát triển đô thị thông minh và nền kinh tế tri thức.
Bên cạnh những thành tựu rực rỡ, hành trình chuyển đổi số của Việt Nam cũng đối mặt những thách thức đáng kể cần giải quyết gấp rút. Điểm nghẽn lớn nhất nằm ở nguồn nhân lực công nghệ cao khi nhu cầu tuyển dụng vượt xa khả năng đào tạo hiện tại. Các chuyên gia có kỹ năng về AI, an ninh mạng hay điện toán đám mây vẫn còn thiếu trầm trọng khiến đất nước khó khăn trong việc làm chủ và sáng tạo các công nghệ tiên tiến. Dự báo đến năm 2025 mỗi năm Việt Nam thiếu hụt từ 150.000 đến 200.000 nhân lực IT đủ chuẩn trong những lĩnh vực sống còn này.
Ngoài ra, an ninh mạng cũng là vấn đề cấp bách bởi sự mở rộng nhanh chóng của truy cập internet đem theo nhiều nguy cơ tấn công mạng và các hình thức chiến tranh thông tin tinh vi. Đặc biệt tại vùng sâu vùng xa nơi nhận thức về bảo mật còn hạn chế thì nguy cơ lừa đảo và mã độc ngày càng nhiều gây tổn thất lớn về dữ liệu cá nhân và tài chính đồng thời làm suy giảm lòng tin vào dịch vụ điện tử chính phủ. Việc xây dựng chiến lược an ninh mạng toàn dân là hết sức cần thiết để bảo vệ niềm tin xã hội trên phạm vi rộng.
Chính sách pháp luật hiện nay chưa bắt kịp tốc độ đổi mới công nghệ cũng gây ra những khoảng trống quản lý tiềm tàng rủi ro hoặc làm chậm quá trình đổi mới sáng tạo khi thiếu hành lang pháp lý rõ ràng trong các lĩnh vực mới như AI, blockchain hay tiền mã hóa. Đồng thời vấn đề dữ liệu liên thông giữa các bộ ngành vẫn gặp khó khăn do tình trạng “cát cứ” dữ liệu chưa được khắc phục triệt để ảnh hưởng tới khả năng cung cấp dịch vụ công tiện lợi tập trung cho người dùng cuối.
Để vượt qua thử thách và tận dụng tốt thời cơ hiếm có này, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa cải cách chính sách linh hoạt cùng đầu tư mạnh mẽ vào hạ tầng nhân lực chất lượng cao. Thiết kế lại dịch vụ chính phủ điện tử lấy người dùng làm trung tâm sẽ cải thiện đáng kể trải nghiệm sử dụng giúp đạt mục tiêu tăng tỷ lệ người dân dùng dịch vụ trực tuyến lên trên 70%. Hơn nữa sự liên thông dữ liệu giữa các cơ quan nhà nước sẽ giúp loại bỏ rào cản thủ tục gây phiền hà cho người dân.
Đầu tư vào đào tạo và thu hút nhân tài công nghệ là nhiệm vụ trọng tâm nhằm xây dựng đội ngũ chuyên gia mũi nhọn về AI, an ninh mạng hay bán dẫn đủ sức lãnh đạo chuyển đổi sâu rộng về công nghệ quốc gia. Song song đó cần mở rộng chương trình phổ cập kỹ năng an ninh mạng toàn dân bằng cách lồng ghép kiến thức bảo mật vào từng cấp học và tổ chức mô hình “đi từng ngõ gõ từng nhà” hướng dẫn người dân vùng sâu vùng xa sử dụng điện thoại thông minh an toàn.
Pháp luật cần liên tục được cập nhật thông qua cơ chế thử nghiệm kiểm soát (sandbox) cho phép thử nghiệm sáng tạo nhưng vẫn nằm trong khuôn khổ pháp lý nhằm hỗ trợ doanh nghiệp phát triển công nghệ mới mà không gây ra rủi ro xã hội quá lớn. Một cơ chế linh hoạt sẽ thúc đẩy môi trường kinh doanh đổi mới sáng tạo thuận lợi hơn đồng thời giảm thiểu các lỗ hổng quản lý.
Vai trò của báo chí truyền thông tiếp tục vô cùng quan trọng khi giữ vai trò cầu nối đưa tri thức kỹ thuật số lan tỏa sâu rộng đến mọi tầng lớp xã hội bằng cách truyền tải thông tin dễ hiểu cùng những câu chuyện thực tiễn sinh động về thành tựu chuyển đổi số ở các địa phương cũng như doanh nghiệp khởi nghiệp thành công trên nền tảng kỹ thuật số hiện đại. Với sự nhập cuộc tích cực của báo chí nhân ngày chuyển đổi số quốc gia cùng chiến dịch tuyên truyền chuyên sâu sẽ tiếp thêm động lực lan tỏa tinh thần đổi mới sáng tạo tới từng cá nhân trong cộng đồng.
Chuyển đổi số là hành trình dài đòi hỏi kiên trì cùng khả năng thích ứng liên tục trước những thay đổi nhanh chóng của khoa học công nghệ lẫn môi trường kinh tế xã hội toàn cầu. Sau gần 5 năm thực hiện chương trình chiến lược chuyển đổi số quốc gia giai đoạn đầu đã hình thành nền tảng tương đối vững chắc với kinh tế số chiếm khoảng 17% GDP và xã hội có tỷ lệ sử dụng smartphone vượt mức trung bình thế giới, bên cạnh vị trí dẫn đầu khu vực về IPv6.Tuy nhiên để cán đích trở thành quốc gia số toàn diện vào năm 2030 vẫn còn nhiều việc phải làm đặc biệt về nhân lực chất lượng cao cũng như củng cố hệ thống bảo mật an toàn mạng quốc gia.
Những xu hướng nổi bật như AI và sản xuất chip bán dẫn mở ra không gian phát triển to lớn nhưng yêu cầu phải có những quyết tâm chính trị đi kèm đầu tư mang tính đột phá cùng cơ chế chính sách luôn được điều chỉnh phù hợp thực tiễn mới đảm bảo hiệu quả lâu dài.
Hành trình chuyển đổi số cần sự chung tay góp sức của tất cả các bên: Chính phủ kiên định mục tiêu định hướng chiến lược; doanh nghiệp mạnh mẽ áp dụng sáng tạo; người dân chủ động tiếp cận kỹ thuật mới; cùng sự đồng hành tích cực của báo chí truyền thông – tất cả hợp sức sẽ đưa Việt Nam vươn lên mạnh mẽ trên bản đồ quốc gia số khu vực và thế giới.